GIÁO DỤC MẦM NON: XƯA VÀ NAY

16:24 - 29/08/2019 3297
Nguồn gốc của giáo dục mầm non bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ 15, nơi khái niệm giáo dục trẻ em được cho là của Martin Luther (1483-1546). Tại thời điểm đó, rất ít người biết đọc và rất nhiều người bị mù chữ. Martin Luther tin rằng giáo dục nên được phổ cập và cho rằng việc giáo dục làm bền vững gia đình và cộng đồng là một việc rất quan trọng. Luther cho rằng trẻ con nên được dạy biết đọc để chúng có thể tự đọc Kinh thánh. Điều này có nghĩa là việc dạy trẻ biết đọc sớm ở độ tuổi mầm non sẽ là một lợi thế rất lớn cho xã hội.

 

Trong hình ảnh có thể có: 2 người, mọi người đang cười
 
Dựa trên ý tưởng này, người tiếp theo cống hiến cho những khởi đầu của giáo dục mầm non là John Amos Comenius (1592 – 1670), ông tin tưởng sâu sắc rằng việc học của trẻ là dựa trên khám phá giác quan. Comenius viết quyển truyện tranh đầu tiên để giúp trẻ biết đọc. Sau đó, John Locke (1632-1704), người sáng tác ra cụm từ nổi tiếng “blank slate”, hay còn gọi là tấm bảng trắng để mặc định rằng tấm bảng ấy chính là điểm khởi đầu của trẻ và môi trường sẽ lấp đầy “tấm bảng” ấy của trẻ ra sao.
 
Người có tầm ảnh hưởng lớn là Friedrich Froebel (182-1852), tin rằng trẻ học thông qua chơi. Ông đã thiết kế ra một chương trình đào tạo giảng dạy mà ở đó, ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quan sát và phát triển các chương trình cũng như các hoạt động dựa trên mức độ kỹ năng và sẵn sàng của trẻ. Froebel bắt đầu xây dựng nền tảng mầm non và thành lập trường mầm non đầu tiên.
 
Phát triển xa hơn từ khái niệm này, Maria Montessori (1870-1952) đã xem trẻ là một nguồn kiến thức và xem người dạy như một kỹ sư xã hội. Coi giáo dục như một phương cách để đẩy mạnh ý nghĩa cuộc sống của trẻ, môi trường học cũng quan trọng như chính việc học, bà đã xác định rằng tri giác của trẻ nên được giáo dục trước rồi mới đến trí tuệ.
 
Jean Piaget (1896-1980) đã thành lập ra một học thuyết về việc học mà ở đó việc phát triển của trẻ được chia ra thành các giai đoạn (vận động giác quan, tiền hoạt động, hoạt động cụ thể -sensory motor, preoperational, concrete operation). Piaget đặt ra lý thuyết rằng trẻ học thông qua các tương tác tích cực và trực tiếp với môi trường xung quanh.
 
Lev Vygotsky (1896-1934) lại đề cao vị trí văn hóa – xã hội đối với sự phát triển của trẻ. Ông cho rằng tác động qua lại của xã hội là phương tiện cho sự phát triển nhận thức, ngôn ngữ và xã hội của trẻ. Vygotsky tin rằng trẻ học thông qua việc tạo bước đệm gợi ý cho kỹ năng của trẻ; nghĩa là giáo viên, hoặc cha mẹ, hoặc bạn đồng lứa có kiến thức vượt trội hơn có thể giúp một đứa trẻ hoàn thành nhiệm vụ của mình trong tầm khả năng của chúng, hoặc thậm chí là cao hơn khả năng vốn có của đứa trẻ đó, hay còn gọi là vùng phát triển gần nhất (ZPD). Vygotsky nhấn mạnh sự cộng tác và thực hiện trong một nhóm có các độ tuổi khác nhau sẽ hỗ trợ rất nhiều cho việc thu nhận kiến thức/kỹ năng của trẻ.
 
John Dewey (1859 – 1952) tin tưởng sâu sắc rằng việc học nên bắt nguồn từ sự thích thú của trẻ, là tiền đề cho phương pháp tiếp cận với dự án. Người dạy có nhiệm vụ kích thích trẻ đam mê khám phá và đặt câu hỏi. Dewey coi lớp học là nơi nuôi dưỡng những hiểu biết về xã hội và do đó, lớp học nên được hoạt động một cách dân chủ.
 
Rudolf Steiner (1861-1925), người xây dựng lên triết lý giáo dục và các trường học Waldorf, thì tập trung vào phát triển trẻ như các cá thể tự do và đạo đức với trình độ năng lực xã hội cao. Steiner chia ra thành ba quá trình phát triển của trẻ: Từ mầm non đến 6 tuổi (giáo dục trải nghiệm), từ 6-14 tuổi (giáo dục phổ thông), và trên 14 tuổi (giáo dục trung học).
 
Erik Erikson (1902-1994) phát triển các quá trình phát triển tâm lý của trẻ mà cha mẹ và người dạy đóng vai trò nòng cốt trong việc nuôi dưỡng sự thành công của trẻ ở từng quá trình để có một kết quả tích cực. Erikson nhấn mạnh rằng quy định về sự phát triển cảm xúc xã hội là một yếu tố chủ chốt của chương trình học mầm non.
 
Loris Malaguzzi (1920-1994), người sáng lập ra phương pháp Reggio Emilia, có cơ sở trông trẻ đầu tiên mở ở thị trấn Reggio Emilia, là một minh chứng cho niềm yêu thích và học tập của trẻ nhỏ mà rất nhiều các nhà giáo dục học đã áp dụng phương pháp này vào trong chương trình học của họ sau này.
 
David Weikart (1931-2003), người sáng lập ra phương pháp HighScope, đã đúc rút từ lý thuyết của Piaget, Dewey và Vygotsky, đã tập trung vào sự trưởng thành trí óc của trẻ. Bước ngoặt mà khiến cho HighScope có giá trị là dự án tiền tiểu học Perry năm 1962. Một nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên của 123 trẻ có trình độ kỹ năng tương đương nhau tham gia nghiên cứu, được chia thành hai nhóm, một nhóm được hoạt động theo phương pháp HighScope, còn nhóm còn lại thì theo phương pháp truyền thống. Các kết quả chỉ ra rằng có sự gia tăng về thành công trong học tập, sự đi lên trên con đường học vấn và mức lương cao hơn cho nhóm này.
 
Nhìn chung, tất cả các nhà lý luận giáo dục mầm non đều muốn đạt được một mục tiêu chung – là nhìn thấy trẻ phát triển thành công khi học tiểu học. Mỗi cấu trúc chương trình giảng dạy sẽ có một cách khác nhau để đạt được mục tiêu đó.
 
SƠ LƯỢC VỀ GIÁO DỤC MẦM NON NGÀY NAY
  
Trong hình ảnh có thể có: 3 người, mọi người đang ăn, mọi người đang ngồi và trẻ em
 
Học dựa theo chủ đề
Phương pháp giáo dục này dựa trên các chủ đề cụ thể có thể phát sinh từ các nguồn khác nhau, như sự thay đổi về mùa/thời tiết, các sự kiện sắp diễn ra, các sự kiện tôn giáo. Học theo chủ đề cũng có hướng dẫn trực tiếp. Việc học không dựa trên sự yêu thích của trẻ, mà dựa trên việc chuyển tại nội dung của giáo viên. Điều này nghĩa là chương trình học được xây dựng từ đầu tuần hoặc đầu tháng. Lợi thế của phương pháp này là người dạy sẽ biết được chính xác họ định dạy trẻ những gì. Bất lợi của việc này là những thứ giáo viên dạy có thể lại chưa chắc là mối quan tâm hiện tại của trẻ, khiến trẻ không thích tham gia vào hoạt động. Việc học trong lớp phải luôn theo cấu trúc nhất định và phụ thuộc vào chủ đề hiện tại. Điều này nghĩa là tất cả những tài liệu trong lớp sẽ phải liên quan/kết nối đến chủ đề đó.
 
Montessori
Các cơ sở mầm non hoạt động theo phương pháp Montessori hiện đã phổ biến trên toàn cầu. Vì Montessori là một phương pháp rất chi tiết, cụ thể, và còn là một tổ chức chính thức cho các trường và người dạy Montessori, nên khi làm việc tại các trường này, người dạy nên có chứng chỉ Montessori. Cần lưu ý rằng có nhiều trường tuyên bố mình là trường hoạt động theo phương pháp “Montessori”, nhưng lại không thực sự chuyển tải đúng hết được phương pháp này. Khi cân nhắc cho con theo học lớp Montessori, bố mẹ cần hiểu rằng lớp học sẽ được sắp xếp tài nguyên dựa trên từng cá thể trẻ và mối quan tâm của chúng. Điều này có nghĩa là học sinh trong lớp được quyền tự quản và có một bộ tài liệu học riêng trong lớp. Điều này có thể không hiệu quả đối với các học sinh muốn có một môi trường học có cấu trúc hơn. Và cũng có thể có những thử thách cho các học sinh sau này chuyển vào học tại các trường truyền thống hoặc “đại trà”.
 
High Scope
Phương pháp này cũng rất độc đáo ở chỗ việc học được chia thành ba phần - “lập kế hoạch – thực hiện – ôn tập”. Trẻ sẽ có một khoảng thời gian để lập kế hoạch về những việc cần phải làm trước khi hoạt động. Đây là việc mô tả các tài liệu mà trẻ sử dụng để tương tác với các trẻ khác. Khi trẻ “thực hiện”, trẻ sẽ thực hiện kế hoạch của mình rất có mục đích. Bám sát với hoạt động, trẻ sẽ “ôn tập” hoặc thảo luận với người lớn và/hoặc với bạn của mình về những gì trẻ vừa được làm và được học. High Scope đánh giá trẻ dựa trên các ghi chép về từng trẻ qua các lĩnh vực sau: cách tiếp cận việc học, phát triển cảm xúc và xã hội, phát triển thể chất và sức khỏe, ngôn ngữ/đọc chữ/giao tiếp, toán, nghệ thuật sáng tạo, khoa học và kỹ thuật, và các nghiên cứu xã hội. Khi họp phụ huynh, nhà trường sẽ chia sẻ những ghi chép này với bố mẹ để mô tả việc học của trẻ được diễn ra trong các lĩnh vực này. Các trường High Scope cần phải được chứng nhận qua tổ chức chính thức của High Scope tương tự như các trường Montessori thay vì như hiện nay các trường tự nhận mình là các trường High Scope nhưng chưa được chính thức đánh giá hay công nhận.
 
Reggio Emilia
Phương pháp tiếp cận này tập trung vào việc ghi chép lại việc học của trẻ cũng như cho trẻ thực sự thể hiện được niềm đam mê của mình. Phụ huynh hay người dạy sẽ là một cộng đồng để khuyến khích trẻ học trong suốt thời gian ở các trường Reggio hoặc mang tinh thần Reggio. Việc học được chia thành các dự án mở. Trẻ được cung cấp những khái niệm nhất định mà trẻ cần để xử lý thông qua nghiên cứu, đặt câu hỏi và làm thí nghiệm.
Phương pháp này tập trung mạnh vào nghệ thuật, một phương tiện giúp trẻ diễn tả được cảm xúc và suy nghĩ của mình thông qua các loại dụng cụ đa dạng. Reggio cũng luôn mong muốn trẻ được tiếp cận với thiên nhiên, có rất nhiều hoạt động ngoài trời mà trẻ có thể sử dụng các nguyên vật liệu thiên nhiên ngoài môi trường để cho vào hoạt động chơi của trẻ. Không có bản đánh giá tiêu chuẩn hóa nào và việc học được thể hiện thông qua các dự án mà trẻ khám phá, và được người dạy ghi lại.
 
Waldorf
Với phương pháp giáo dục này, trẻ được đào tạo trong một chế độ theo chủ nghĩa nhân đạo, có lòng yêu thương và tinh thần trách nhiệm xã hội. Một điều nổi bật là các giáo viên sẽ theo lớp học đó cho tới khi trẻ ra trường. Các tác phẩm nghệ thuật và có tính chất học thuật được hợp nhất trong một bài học. Những trường này không sử dụng công nghệ trong lớp học. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ tập trung vào kỹ năng đọc khi trẻ lên 7 tuổi, nhấn mạnh vào kể chuyện và học qua chơi. Một phần đào tạo giáo viên Waldorf là học về Nhân linh học (hiểu biết về con người) của Rudolf Steiner. Mặc dù không trực tiếp dạy trẻ điều này, nhưng triết học tâm linh này được truyền bá trong một phạm vi nhất định thông qua các tương tác hàng ngày.
 
ỨNG DỤNG VÀO CHƯƠNG TRÌNH HỌC: PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN KẾT HỢP (BLENDED) HAY TIẾP CẬN TRUYỀN THỐNG ĐƠN THUẦN?
 
Trong hình ảnh có thể có: 2 người, mọi người đang cười, mọi người đang ngồi và mọi người đang ăn
 
 
Đưa ra những các tiếp cận khác nhau vào giáo dục mầm non, điều này đặt ra câu hỏi: phương pháp nào là tốt nhất? Hay phương pháp này liệu có thống trị phương pháp kia? Câu trả lời ngắn gọn là nó còn tùy thuộc. Một số chương trình thích cách tiếp cận truyền thống, gắn với chương trình học thuần túy. Montessori và Waldorf là hai phương pháp có thể được duy trì từ mầm non đến tận cấp ba.
 
Điều này chỉ ra rằng rất quan trọng để hiểu rằng các phương pháp và giáo dục học là mô hình để truyền cảm hứng cho việc thực hành hơn là cách đưa vào cứng nhắc. Hiện tại, đã có sự gia tăng đáng kể các chương trình học được xây dựng theo cách tiếp cận pha trộn, kết hợp hai hay nhiều phương pháp giảng dạy trong chương trình học. Điều này chứng tỏ rằng mỗi phương pháp đều có những lợi ích nhất định và thích ứng được với từng trẻ.
Hãy tưởng tượng một chương trình được xây dựng bằng sự kết nối các phương pháp khác nhau cho phép giáo viên cân bằng giữa việc dạy có hướng dẫn và việc học có tính xây dựng. Hãy thử nghĩ tới một thí nghiệm xa hơn mà ở đó, một học sinh có thể vẽ theo Reggio với tính cộng đồng và có sự ghi chép lại; Montessori với việc học tự chủ và độc lập; Waldorf với sự kết hợp giữa nghệ thuật và ý thức xã hội, và cuối cùng là High Scope với quá trình ba bước vô giá để đảm bảo quá trình học có mục đích, có kế hoạch và có phản hồi.
 
Cuối cùng, sự lựa chọn chương trình học suy cho cùng là sứ mệnh của một trường học. Liệu mục tiêu là để nuôi dưỡng cộng đồng, để mang lại cấu trúc và quá trình, để đưa trẻ gắn bó với thiên nhiên, hay là một thứ gì đó hoàn toàn mới mẻ? Đây là những câu hỏi sẽ giúp cho trường học điều chỉnh chương trình học. Tôi hi vọng rằng bài viết này đã cung cấp cho các bạn những câu hỏi sáng suốt và truyền cảm hứng.
 
Bạn thích cách tiếp cận thuần túy hay kết hợp? Hãy cho chúng tôi biết suy nghĩ của bạn ở bên dưới. Chúng tôi sẽ công bố kết quả vào điểm tin tuần tới, hãy đón chờ nhé!
 

Tin liên quan